Ghi nợ và Tín dụng |
42 TÌNH HUỐNG KHÓ XỬ VÀ CÁCH XỬ LÝ
Bạn không cần phải biết các khoản ghi nợ và tín dụng để thực hiện kế hoạch kinh doanh. Như tôi đã nói ở đâu đó, việc lập kế hoạch không phải là kế toán. Bạn không cần phải là một MBA hoặc CPA để phát triển tài chính kế hoạch kinh doanh. Bạn cần có khả năng đưa ra các giả định hợp lý và tuân theo các tài chính, tốt nhất là sử dụng phần mềm Business Plan Pro.
Tuy nhiên, một số hiểu biết đơn giản là hữu ích và dễ dàng. Khoản nợ và tín dụng ban đầu xuất hiện như là một phần của hệ thống sổ sách kế toán kép hỗ trợ toàn bộ thế giới kế toán, lập kế hoạch và phân tích tài chính.
Nó bắt đầu bằng một bảng kế toán đơn giản, như bạn thấy ở đây. Bạn viết các mục trong một cột, ghi nợ khác, và tín dụng trong một phần ba.
Mục | Ghi nợ | Tín dụng |
Bán hàng | $ 635.32 | |
Tiền mặt | $ 635.32 |
Bạn sẽ nhận thấy rằng giao dịch duy nhất có hai mục nhập, một trong số 635,32 đô la cho giao dịch mua và khoản còn lại cho số tiền 635,32 đô la có liên quan cho tiền mặt. Dưới đây là một cách khác:
Mục | Ghi nợ | Tín dụng |
Thuê | $ 975,00 | |
Tiền mặt | $ 975,00 |
Có thể phức tạp hơn nhiều, nhưng với những ví dụ này bạn có thể xem cơ sở của hệ thống. Dưới đây là một số tiêu chuẩn có sẵn có thể giúp đỡ.
- Mỗi giao dịch phải có số tiền bằng nhau cho các khoản ghi nợ và tín dụng. Kế toán phải luôn cân đối các khoản ghi nợ và tín dụng. Đó là từ “số dư” xuất phát từ.
- Số tiền bán hàng thường là tín dụng. Ghi nợ để bán hàng cũng giống như khoản tiền hoàn lại. Nó làm giảm doanh thu.
- Chi phí và chi phí thường là ghi nợ. Bạn ghi nợ tài khoản chi phí và ghi có vào số tiền đã trả (như trong số dư kiểm tra hoặc tiền mặt) hoặc không được thanh toán (như trong Tài khoản phải trả).
- Việc tăng tài sản luôn là một khoản ghi nợ. Sự gia tăng trách nhiệm pháp lý luôn là một khoản tín dụng.
- Việc tăng vốn (ví dụ, một khoản đầu tư mới) luôn là tín dụng. Khoản đầu tư mới là tín dụng cho vốn và một khoản ghi nợ vào tài khoản séc.